Các biến thể Gloster_Meteor

Gloster F.9/40Nguyên mẫu, chế tạo 8 chiếc -
  • DG202/G lắp động cơ phản lực Rover W2B, bay lần đầu 24/7/1943.
  • DG203/G lắp động cơ phản lực Power Jets W2/500, bay lần đầu 9/11/1943.
  • DG204/G lắp động cơ phản lực Metrovik F2, không như những chiếc F.9/40 khác, động cơ của chiếc này được đặt dưới cánh, bay lần đầu 13/11/1943.
  • DG205/G lắp động cơ phản lực Rover W2B/23, bay lần đầu 12/6/1943.
  • DG206/G lắp động cơ phản lực Halford H1, bay lần đầu 5/3/1943.
  • DG207/G lắp động cơ phản lực Halford H1, bay lần đầu 24/7/1945, trở thành nguyên mẫu của biến thể F.2.
  • DG208/G lắp động cơ phản lực Rover W2B/23, bay lần đầu 20/1/1944.
  • DG209/G lắp động cơ phản lực Rover W2B/27, bay lần đầu 18/4/1944.
Meteor F.1Phiên bản đầu tiên được sản xuất hàng loạt trong giai đoạn 1943-1944, chế tạo 20 chiếc.Meteor F.1, động cơ tuabin cánh quạtTrentMột chiếc F.1 dùng cho thử nghiệm động cơ, chế tạo năm 1945, mã định danh EE227, được trang bị động cơ tuabin cánh quạt Rolls-Royce Trent, đây là chiếc máy bay động cơ tuabin cánh quạt đầu tiên trên thế giới.Meteor F.2Phiên bản trang bị động cơ khác – 1 chiếc.Meteor F.3Trang bị động cơ Derwent I, nắp buồng lái trượt, bay lần đầu 11/9/1944, 210 chiếc (15 chiếc đầu lắp động cơ Welland)F.4, thuộc Không quân Argentina.Meteor F.4Trang bị động cơ Derwent 5, khung thân gia cố, 489 chiếc được chế tạo bởi Glosters và 46 chiếc bởi Armstrong Whitworth cho Không quân Hoàng gia. F.4 cũng được xuất khẩu tới Argentina (50 chiếc), Bỉ (48 chiếc), Đan Mạch (20 chiếc), Ai Cập (12 chiếc), Hà Lan (38 chiếc).Meteor FR.5Phiên bản trinh sát-tiêm kích của F.4, lắp máy ảnh ở mũi thay cho 4 khẩu pháo và máy ảnh ở thân, bị phá hủy trong khi bay lần đầu ngày 15/6/1949.Meteor F.6Biến thể đề xuất cánh xuôi cho F.4, không được chế tạo.Meteor T.7Biến thể huấn luyện 2 chỗ của F.4, bay lần đầu 19/3/1948, 640 chiếc được chế tạo cho không quân và hải quân hoàng gia (43) và 72 chiếc cho xuất khẩu (Bỉ, Brazil, Đan Mạch, Ai Cập, Pháp, Israel, Hà Lan). Avions Fairey đã hóa cải 20 F.4 của không quân Bỉ lên tiêu chuẩn T.7.A77-871 (WK791) F.8, thuộc Không quân Hoàng gia AustraliaMeteor F.8Phiên bản cải tiến hoàn toàn từ F.4, thân dài hơn, chứa được nhiều nhiên liệu hơn, có ghế phóng cho phi công, đuôi được sửa lại (đuôi lấy từ E.1/44). Biến thể này là một trong những mẫu tiêm kích tiền tuyến chủ lực trong các phi đội RAF trong giai đoạn 1950-54.Meteor F.8 Prone PilotMột phiên bản thử nghiệm kiểu F.8 phi công lái nằm sấp F.8, WK935 được sửa đổi bởi Armstrong Whitworth.Mẫu F.8 phi công lái nằm sấp thử nghiệm duy nhất.Meteor FR.9Phiên bản tiêm kích và trinh sát của F.8, bay lần đầu 23/3/1950, 126 chiếc được Glosters chế tạo cho Không quân Hoàng gia. Các máy bay cũ hơn RAF sau này được bán cho Ecuador, Israel và Syria.Meteor PR.10Phiên bản trinh sát chụp ảnh của F.8, bay lần đầu 29/3/1950, 59 chiếc được chế tạo cho Không quân Hoàng gia.Meteor NF.11Biến thể tiêm kích bay đêm với radar Airborne Intercept và do Armstrong Whitworth chế tạo, 3 nguyên mẫu và 311 chiếc được chế tạo cho Không quân Hoàng gia và 20 chiếc cho Không quân Hoàng gia Đan Mạch.Meteor NF.12Phiên bản với mũi dài hơn bắt nguồn từ NF.11 trang bị radar AN/APS-21 của Mỹ, bay lần đầu 21/4/1953, 100 chiếc do Armstrong Whitworth chế tạo.Meteor NF.13Phiên bản nhiệt đới của NF.11 để thay thế Mosquito NF.36 đang phục vụ trong Phi đội số 39 ở Malta và Cyprus và Phi đội số 219 ở Ai Cập. 40 chiếc đầu do Armstrong Whitworth chế tạo, bay lần đầu 21/12/1952. Sau này chúng được bán cho Ai Cập (6), Pháp (2), Israel (6) và Syria (6).Meteor NF.14NF.11 trang bị nắp kính buồng lái kiểu mới. Có mũi dài hơn 51 ft 4 in. Nguyên mẫu được sửa đổi từ một chiếc NF.11, bay lần đầu 23/10/1953. Có 100 chiếc được Armstrong Whitworth chế tạo cho Không quân Hoàng gia.Meteor U.15Bia bay, được chuyển đổi từ F.4, 92 chiếc được Flight Refuelling chuyển đổi.[32]Meteor U.16Bia bay được chuyển đổi từ F.8, 108 chiếc được Flight Refuelling chuyển đổi.[32]Meteor TT.20Mục tiêu giả tốc độ cao được chuyển đổi từ NF.11 cho Hải quân Hoàng gia, 20 chiếc NF.11 cũ của không quân được Armstrong Whitworth chuyển đổi.[33]Meteor U.21Bia bay chuyển đổi từ F.8 cho Không quân Hoàng gia Australia bởi hãng Flight Refuelling, một số máy bay được chuyển đổi tại Australia bởi hãng Fairey Aviation của Australia sử dụng bộ chuyển đổi do Flight Refueling cung cấp.[32]Tiêm kích tấn công mặt đấtCòn được gọi là Reaper, đây là một phiên bản F.8 được sửa đổi bởi hãng Gloster như một dự án tiêm kích tấn công mặt đất mạo hiểm riêng của hãng. Bay lần đầu 4/9/1950, chỉ có 1 chiếc được chế tạo.[34]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gloster_Meteor http://www.aviationmuseum.com.au/aircraft/Meteor.c... http://www.raaf.gov.au/airpower/publications/pathf... http://www.adf-serials.com/2a77.shtml http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1945/1... http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1945/1... http://books.google.com/books?id=mzDI68WOy4UC&pg=P... http://video.google.com/videoplay?docid=1812595429... http://zurakowskiavroarrow.homestead.com/Biography... http://www.meteorflight.com http://www.the-best-of-british.com/PlaneCrazyHerit...